Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017

Tín ngưỡng tôn giáo của người Nhật Bạn dạng và những điều kiêng kị - Nhật Bạn dạng

20:24 Posted by Duy Thanh No comments

“Người Nhật Bạn dạng không thích màu tím, họ nghĩ là màu tím mang màu sắc đau thương, họ kiêng kị nhất là màu xanh lá cây, vì họ nghĩ là màu xanh lá cây là màu đen đủi.”

Người Nhật Phiên bản đa phần có tín ngưỡng Phật giáo và Thần đạo. Người Nhật Phiên bản không thích màu tím, họ cho rằng màu tím mang màu sắc đau thương, họ kiêng kị nhất là màu xanh lá cây, vì họ nghĩ là màu xanh lá cây là màu đen đủi.

Người Nhật Phiên bản còn kiêng kị 3 người cùng chụp bình thường ảnh, họ nghĩ là người đứng ở giữa sẽ bị 2 người bên trái và bên phải kẹp lấy, đây là điềm không may. Họ còn kiêng kị hoa sen, nghĩ rằng hoa sen là hoa tóc tang. Khi đi thăm người bệnh, họ kiêng kị tặng hoa sơn trà, hoa có màu vàng nhạt và hoa màu trắng.

Người Nhật Phiên bản không muốn kiếm được vàng và vật có hình hoa cúc do người khác tặng, vì hoa cúc là biểu trưng của gia tộc hoàng tộc. Người Nhật Bạn dạng yêu mến các loại hình như cây tùng, cây trúc, hoa mai, con vịt, con rùa, v.v.

Nói đến Nhật Bạn dạng là nói đến một nước nhà đa tôn giáo. Quan sát quá trình phát hành lịch sử Nhật Phiên bản ta luôn thấy sự hiện diện của đa dạng tôn giáo, cơ bản là ba tôn giáo sau: Thần đạo(đạo Shinto), Phật giáo và Công giáo. Cho tới nay, tác động của ba tôn giáo này đã để lại dấu ấn đậm nét trong đời sống văn hoá của người Nhật. Vậy chúng ta hãy quay trở về những chặng các con phố đầu của lịch sử Nhật Bản để tìm hiểu xem ba tín ngưỡng này bắt nguồn từ đâu và ảnh hưởng của nó như thế nào đối với người Nhật.

1.Kỷ nghuyên Nara:

Tín ngưỡng bạn dạng địa của Nhật Bạn dạng là Thần đạo, chủ công thờ tự các nhóm siêu nhiên vô hình, được gọi là Kami (thần thánh), chả hạn như mặt trăng, mặt trời, cỏ cây non nước. Sau này, dưới sự bảo trợ của thống trị thống trị, nó trở thành tín ngưỡng có thiết dè bỉu, có doanh nghiệp và được nâng lên thành tín ngưỡng chính thống gọi là Shinto (Thần đạo). Đặc điểm của Thần đạo là các đền thờ được xây dựng và trang hoàng đơn giản khác hẳn với các ngôi chùa lớn của đạo Phật.

Thế kỉ VI ghi lại cho sự nhập khẩu văn hoá Trung Hoa chính thức tham gia Nhật Phiên bản, bắt đầu là Phật giáo và Hán học. Phân khúc tu sĩ, tăng lữ là những người đi đi đầu trong việc thu nạp các kiến thức mới học được của Trung Hoa mang về cho đất nứớc. Khác biệt Thái tử nhiếp chính Shotoku với”Hiến Pháp 17 nhân tố” mà ông đề ra đã khiến cho Phật giáo sản xuất phổ thông ở Nhật Bản. Người Nhật tới với Phật giáo với nguyện vọng dễ chơi muốn thoả mãn lợi ích vật chất. Vì thế, sức thu hút của đạo Phật cũng chính là vẻ đẹp tráng lệ của các ngôi chùa, với những buổi lễ trang trọng. Dĩ nhiên ở thời gian này, người ta chỉ coi những lời cúng bái như là sự phù phép chứ chưa có ảnh hưởng gì tới tinh thần. Khi hiểu biết hơn, người Nhật đã có sự thay đồi trong cách thức nghĩ. Thuở đầu họ coi trọng các nhân tố tinh thần của Phật giáo, đặc biệt là trong tình cảm đối với gia đình. Tới cuối thế kỉ VI, đạo Phật đã biến thành quốc giáo. Các nghi lễ Phật giáo biến thành một phòng ban cần thiết của lễ nghi triều đình. Nhiều chùa chiền được xây dựng theo lệnh của nhà nước. Ngay phiên bản thân phân khúc quí tộc cũng cho xây đắp điện thờ Phật trong dinh của họ. Việc sao chép kinh Phật trở nên hưng thịnh hành. V× thÕ mçi ng«i chïa hay s¬n m«n ë tỉnh là một hạt nhân bản hoá. Từ đó có thể nói rằng, đạo Phật vừa là động cơ xúc tiến nền văn hoá, vừa là công cụ để củng cố quyền lực của thống trị ách thống trị đương thời.

Cuối thời Nara, do có sự hiểu biết hơn về Phật giáo các sư sãi đã chuyển trong khoảng việc học các nguyên tắc đại cương của đạo Phật sang việc tò mò sâu hơn những cái hay của tôn giáo mới này. Sau đó dần dần các giáo phái không giống nhau hiện ra, trong đó nổi bật là sáu phái: phái Tam luận (Sanron), phái Thành thực (Joritsu), phái Pháp tưởng (Hosso), phái Duy thực(Yushiki), phái Luật (Ritsu) và phái Hoa Nghiêm (Regon). Nhìn thông thường, cả sáu giáo phái này có chung một mục đích và không chống đối nhau.

Ngay ở thời kì đầu, Phật giáo đã có những ảnh hưởng tích cực đến đời sống của người Nhật. Phật giáo chẳng những kích thích việc học hành, nâng cao sự cảm thụ nghệ thuật cho dân tộc Nhật Bạn dạng mà còn xúc tiến các đơn vị quản lý kinh tế phát hành như ngành nghề tay chân mỹ nghệ, xây dựng tòa tháp, khiến thêm con đường xá…Đương nhiên, Phật giáo cũng để lại tác động tiêu cực đối với quốc gia. Do triều đình ban cho giới tu hành và giới quí tộc nhiều đặc quyền đặc lợi nên quyền lực của triều đình bị doạ ăn hiếp.

Dù xuất hiện hăng hái và tiêu cực nhưng Phật giáo vẫn là động cơ thúc đẩy sự tân tiến của nền văn hoá dân tộc, cùng lúc Phật giáo đã thổi một luồng gió mới tham gia nước Nhật, làm cho tín ngưỡng này trở thành hệ thống tôn giáo có sức thuyết phục cố định và mang đến cho Nhật Phiên bản rộng rãi yếu tố mới lạ mà tôn giáo cổ điển chưa thể có được.

Cùng với Phật giáo, Nhật Bạn dạng thời Nara còn tiếp thụ một tín ngưỡng khác, đó là Khổng giáo. Đây là hệ thống lý luận, chuẩn mực đạo đức chính thống về văn hoá và chính trị của Trung Hoa. Nó được truyền bá vào Nhật Bản qua đa dạng con đường mà bắt đầu là đoạn đường Triều Tiên. Những qui tắc và lối suy nghĩ của đạo Khổng trong “Hiến Pháp 17 nhân tố” của Thái tử Shotoku đã chứng tỏ được sức ảnh hưởng của Khổng giáo đối với nhà nước Nhật Bản. Khổng giáo ảnh hưởng lên khá phổ biến mặt trong đời sống của người Nhật, khác lạ là mặt đạo đức. Phổ biến vấn đề răn dạy của Khổng giáo đã được ghi chép tập thích hợp lại thành sách, trong đó “Hiếu kinh” được cho là cuốn sách không thể thiếu trong chương trình học của mỗi trường.

Tất nhiên, với người Nhật đạo Khổng còn nặng về lý thuyết phổ quát hơn thực tế và người Nhật chỉ sử dụng những ngôn trong khoảng vay từ đạo Khổng để duy trì luân lý đạo đức và đề cao trung hiếu.

2.Thời đại Heian:

Để tránh tác động quá sâu của tôn giáo, Hoàng đế Kamu khi lên ngôi đã quyết định rời đô về Heian.Tất nhiên, ở giai đoạn này, triều đình vẫn giữ thái độ hoà bình với đạo Phật. Lễ thức của đạo này vẫn được tôn trọng trong đời sống phố hội.Bởi vậy Phật giáo vẫn được coi là quốc giáo. Hình như đó, Phật giáo thời Heian đã có sự thay đổi lớn, từ một chuỗi hệ thống tín ngưỡng được tầng lớp trên ủng hộ vì mục đích riêng, nay đã trở thành một tín ngưỡng thực thụ hấp dẫn đối với đại chúng.

Nhị giáo phái lớn chung là Tendai (Thiên đài) và Singon (Chân ngôn) do nhị nhà tu hành nhiều người biết đến Saicho và Kukai đứng đầu.Tendai là một môn phái chính thống trong đạo Phật ở Nhật Bản, có can hệ đến trường phái Phật giáo ở Trung Hoa nhưng mang màu sắc Nhật Bạn dạng. Đạo Tendai được xây đắp trên cơ sở vật chất học thuyết siêu hình hòa hợp với các trường phái Phật giáo Nara trước đây. Nó là sự câu kết của những trường phái thiên về cách thức tu hành khổ hạnh. Còn đạo Singon toát lên những lối suy nghĩ cao quí mang tính huyền ảo, giàu tính tượng trưng hơn biểu thị.

Có thể nói nhị đạo này khắc ghi những mốc lớn trong lịch sử lối suy nghĩ Nhật Phiên bản và những bài viết của nhị hoà thượng Saicho và Kukai được coi là đã đặt nền móng cho một tư duy có chuỗi hệ thống.

Về toàn bộ, đạo Phật ở Nhật Bạn dạng thế kỉ IX, X chưa thật thịnh hành trên cả nước .Trong khi giới quí tộc hướng về đạo Phật thì gần như người địa phương, mặc dầu vẫn đi lễ Phật nhưng tâm hồn lại dành cho các vị thần dân tộc với tín ngưỡng cổ điển là Thần đạo.

Ngoài đạo Phật, thời Heian, với nền tảng được xây đắp trong khoảng thời Nara, đạo Khổng được người địa phương khá coi trọng và trở thành môn học hàng đầu trong chương trình giảng dạy đại học.Việc phân tích đạo Khổng càng ngày càng được chuyên môn hoá. Tất nhiên, do đạo Khổng mang tính chất triêt lí nên người Nhật chỉ quan tâm đến  mặt chính trị, lịch sử của đạo Khổng và những châm ngôn được dùng trong việc cai trị.

Mặc dầu nhận thức của nhân loại đã tiến bộ hơn nhưng nói chung thị trấn hội Heian và cả tầng lớp quí tộc vẫn tin vào các hàng ngũ siêu tự nhiên. Niềm tin này được lý giải bằng thuyết âm dương, bằng khía cạnh huyền bí của đạo Phật nên nó vẫn sinh tồn lâu dài. Hơn nữa, tinh thần hệ của nhân loại thời đại Heian bị chi phối bởi trào lưu lối suy nghĩ, kể cả mặt siêu nhiên và siêu hình của đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật và Thần đạo đoàn kết với nó, những phép bói toán, xem sao, xem hướng đất… rất được thông thường.

3.Kỷ nghuyên Kamakura:

Ở kỷ nghuyên này, người ta lưu tâm đến việc bình phục và cải tổ Phật giáo để Phật giáo mang tính dân gian. Trước đó, Phật giáo chỉ bỏ ra riêng cho tầng lớp trên trong thị trấn hội và chưa được quảng cáo phổ biến trong mọi phân khúc quần chúng. Hơn nữa, những sai lầm thiếu nghiêm minh trong Phật pháp được coi là những duyên do gây nên sự suy sụp về tinh thần trong thị trấn hội. Sau này, Phật giáo được phổ biến đa dạng, mang tính dân tộc và màu sắc Nhật Phiên bản. Vấn đề này được biểu hiện rõ nét trong phương pháp nhìn kiếm được đối với Phật giáo chính thống thời Fujwara. Có 3 trường phái khác biệt:

– Phái chủ trương hồi phục các giáo phái ở Nara, nhất là Kegon( Luật tông) và Ritsu (Nghiêm tông)

– Phái chủ truơng tách khỏi giáo phái Heian, lập các giáo phái mới, đó là Jodo, Shin và Nichiren.

– Phái Zen tạo ra nhiều trong quá trình giao lưu với Trung Hoa đời nhà Tống.

Hàng ngũ chủ trương hồi phục giáo phái cổ Nara đặc biệt đề cao Luật tông và Nghiêm tông nhằm mục đích chỉnh đốn lại kỉ cương Phật giáo.Tất nhiên, giáo phái này không chiếm được kết quả để kéo chúng quay về dòng chính của tín ngưỡng, không tính việc trùng tu lai tu viện Todaiji bị thiêu huỷ năm 1180.

Sự sản xuất của giáo phái Zen là một hiện tựơng “có một không hai” trong lịch sử tôn giáo Nhật Bản. Nó có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội, tác động đến tư duy, nếp nghĩ của người Nhật, tới nghệ thuật và văn hoá Nhật Bạn dạng. Giáo phái này cho rằng sự giác ngộ chỉ có được bằng kiếm được thức trực giác và lối suy nghĩ này đã rất thông thường ở phổ thông giáo phái từ thời kì Nara như thiên Đài và Chân Ngôn.

Ngoài nhị giáo phái chính nói trên, có một giáo phái khác cũng của đạo Phật được phân khúc võ sĩ Nhật Bản rất coi trọng, đó là phái Thiền Tông do các nhà sư du học ở Trung Hoa mang về vào thế kỉXII. Các tu sĩ phái Thiền Tông đóng vai trò cơ bản trong lịch sử phát hành các cách thức nghệ thuật của Nhật như kịch No, kiến trúc và hội hoạ. Dường như, còn có ba ngành nghề nghệ thuật mà sau này biến thành nét đặc thù cho văn hoá Nhật Phiên bản, đó là nghệ thuật vườn cảnh (Bonsai), nghệ thuật cắm hoa (Ikebana)và nghệ thuật trà đạo.

Mặc dù trong khoảng thế kỉ thứ VII, đạo Khổng và đạo Phật đã du nhập vào nước Nhật nhưng chúng vẫn không lấn áp được tính dân tộc và tín ngưỡng truyền thống của người Nhật. Ở thời đại Kamakura, Thần đạo được coi là chính thống và sự phát hành lí luận Thần giáo cũng khởi đầu từ đây.

Sự hỗn phù hợp lối suy nghĩ Thần đạo và Phật giáo được hoàn thành vào thế kỉ thứ XII, do nhị trường phái Thần đạo Tendai và Shingon thây mặt. Chủ trương của hai tông phái này là: Mọi sự vật trong thiên hà đều là sự thể hiện Phật Thích Ca và bày ra phần nhiều lễ nghi Phật giáo trong Thần đạo.Vì vậy những đền thờ Thần đạo chịu ảnh hưởng của Phật giáo chiếm hữu hơn người ấy.Tham gia thế kỉ VIII, những lí luận như lý thuyết Thần đạo-Phật giáo, Hỗn thích hợp( Konton) hay Tiểu khí (Kizen)…đã đựợc tập phù hợp thành luận thuyết Honji Suijaku-một thành quả nói về nền móng của thiên hà, của đức Phật  và của sự sinh tồn.

Nói chung, đạo Shinto đề cao vai trò của các vị Hoàng Đế trong chuỗi hệ thống cai trị nước Nhật.Và Thần đạo là một trong những công cụ của người cầm quyền binh nội địa.

4. Thời đại Muromachi.

Dù rằng kỷ nghuyên Muromachi là kỷ nghuyên đầy rối ren, hỗn loạn nhưng cũng là một thời kì tạo ra mạnh bạo của tín ngưỡng.

Có thể nói Phật giáo Thiền có ảnh hưởng lớn trong các tổ chức tín ngưỡng đương thời. Khác với các giáo phái đương thời, Thiền tông thường đứng ngoài các cuộc tranh chấp tôn giáo. Các nhà tu hành Thiền là những người có học thức uyên thâm, tài hoa và được các lãnh chúa phong kiến coi trọng. Giới chỉ huy phong kiến thường tham khảo quan niệm của họ về học vấn, về năng khiếu thẩm mỹ và cả các chính sách thống trị nước. Các Thiền sư sử dụng việc truyền giáo nhằm giữ bình ổn tình hình thị trấn hội. Duyệt Thiền đạo, giới chỉ huy Nhật đã tiếp cận được phổ thông công trình cổ xưa của Trung Hoa và các tu sĩ Thiền tông có mối quan hệ khắn khít với Trung Hoa.

Hiệu quả hàng đầu của việc học tập được tăng nhanh, khác biệt là học vấn của phái Bugaku ở Kamakura và Kyoto. Các tu viện là nơi tâp trung sức mạnh của đạo Phật và giới tăng lữ thời kì này.

Lúc này giáo phái Thiền có những cơ sở vật chất lớn ở Kamakura và Kyoto.Ở Kamakura có 5 tu viện và 10 điện, đứng đầu là Kenjochi được xây đắp dưới thời Hojo. Ở Kyoto cũng có một vài lượng tương đương, đứng đầu là các Tenryuj.

Tuy đạo Thiền tạo ra và được coi trọng nhưng tín ngưỡng phiên bản địa đạo Shinto vẫn sống sót và lúc này Thần Phật liên hiệp với nhau.

5. Thời đại Azuchi-Momoyama:

Phật giáo thời kì này có tác động bao la, có thần thế trong xã hội và có sức mạnh quân sự ở Nhật Phiên bản, nhưng nó vẫn chưa đủ sức để thu phục các lãnh chúa phong kiến, kể cả triều đình và các tướng quân.

Trong thời kỳ phát triển, đạo Phật có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống ý thức của người Nhật Bạn dạng. Phái Thiền tông đã chiến thắng trong việc sản xuất và mở mang các cách thức nghệ thuật và văn hoá. Tuy nhiên các giáo phái khác như Tendai (Thiên đài)…lại là nguyên do gây ra những bất ổn phường hội hoặc quá lạm dụng đặc quyền của bản thân. Nhưng sau này dưới thời Tokugawa, đạo Phật bị hội đồng Tướng quân giám sát chặt chẽ. Việc thờ tự vẫn được duy trì nhưng quyền lực của đạo Phật không còn mạnh như trước. Thời kì mờ ám của đạo Phật bắt đầu trong khoảng thời Minh Trị khi nhà nước hồi phục lại đạo Shinto. Sau này, đạo Phật dần dần lấy lại được lòng tin của người dân và trở thành tín ngưỡng chính thống.

Cơ đốc giáo thời kỳ đầu được quảng cáo vào Nhật Bản do các tu sĩ dong Ten. Đa phần những nhà truyền đạo này là người Tây Ban Nha. Ở thời điểm đầu, do Cơ đốc giáo chưa có bộc lộ gì gây mất định hình lớn trong thị trấn hội nên việc truyền giáo nhường nhịn như rất trôi chảy, dễ hoà nhập với văn hoá Nhật Bản.

Trong vòng một số năm tiếp theo, nhờ có chỗ dựa khỏe khoắn vào các lãnh chúa phong kiến, vị thế của các nhà truyền giáo được nâng lên, họ có thể trực tiếp tham gia tham gia các sự kiện chính trị tại Nhật Phiên bản đương thời.

Dù rằng Cơ đốc giáo trên thực tiễn không để lại những tác động hoành tráng đối với phố hội Nhật Bạn dạng nhưng nhân tố mà người Nhật đích thực quan tâm là những chiến thắng khoa học và lợi ích vật chất của văn hoá phương Tây.

Tới thời Hedeyoshi, lúc đầu ông rất thân thiết với các nhà tuyên giáo nhưng phát xuất từ thuộc tính chính trị, năm 1587, Hedeyoshi đã đổi mới thái độ và ra lệnh đuổi hết các nhà truyền giáo ra khỏi Nhật Bản. Tuy nhiên chỉ thị này vẫn chưa có ảnh hưởng hăng hái, các nhà tuyên giáo vẫn âm thầm hoạt động. Hideyoshi nhận ra rằng Cơ đốc giáo chính là mối nguy cơ chính trị và các nhà truyền giáo là những người tạo dựng tuyến đường cho sự lấn chiếm tổ quốc nên ông đã có những giải pháp chắc nịch.

Sau thời Hideyoshi, đến thời Ieyasu, thuở đầu ông cũng có thái độ khoan dung với các nhà tuyên giáo nhưng khi trông thấy mục đích tuyên giáo mang thuộc tính chính trị nên tới năm 1962, ông chính thức quyết định cấm Cơ đốc giáo, triệt phá một vài trạm xe buyt và ứng dụng những biện pháp đối với dân đạo, giới quân sự, đặc biệt đối với lính cao cấp. Dĩ nhiên, ông vẫn chưa tước quyền hòa bình tôn giáo của những người thuộc phân khúc khác.

Những cuộc khủng bố đạo khởi đầu xảy ra, hàng ngàn người bị hành quyết, phổ thông người phải bỏ đạo vì bị tra tấn. Nhiều nhà truyền giáo bị quản thúc tại nhà cho đến lúc chết và có phổ quát người tử vì đạo ở Kyoto và Nagasaki.

6. Kỷ nghuyên Edo:

Vào thời Edo, đạo Khổng ( chủ đạo là Tống Nho) được chính quyền Mạc Phủ lựa chọn làm cho hệ lối suy nghĩ chính thống của tổ quốc. Tống Nho ( thuyết lí Chi Hi ) được PR vào Nhật Bạn dạng từ thế kỉ XIV, nay càng ngày càng được củng cố và luôn đề cao hai chữ “Trung-Hiếu”-đây là nhân tố quan trọng hàng đầu để kiểm soát an ninh cơ chế phong kiến.

Đền thờ Khổng Tử được xây dựng ở đa dạng nơi. Ví dụ như ở Nagoya Ueno(1632) do Yoshinao, ở Mito do Mitsukuni, ở Hozuna do Aizu xây dựng…Riêng ở Ueno, đền thờ Khổng Tử là nơi tổ chức các lễ thức đạo Khổng. Tham gia những buổi lễ hội theo mùa, người ta tế đức Khổng Tử như tế các vị thần Nhật Bản xa xưa. Năm 1690, thánh đường thờ Khổng Tử được dời về Yushima. Nơi đây người ta đã xây dựng một khu thánh các con phố lớn và khu huấn luyện người tài cho tổ quốc theo đạo đức Khổng giáo. Trong khoảng đó, Yushima biến thành trọng điểm lễ hội kỉ niệm Khổng Tử của cả nước.

Mặc dù chính quyền Mạc Phủ đề cao đạo đức Khổng giáo nhưng trong tâm linh người Nhật, Thần đạo không bao giờ mất đi. Người Nhật luôn ý thức rằng họ là con cháu các vị thần thánh và các vị thần linh luôn được thờ tự phổ thông trên khắp nước Nhật. Với tâm niệm rằng các vị thần linh Kami luôn bảo trợ cho họ nên hàng năm, người Nhật doanh nghiệp các lễ hội truyền thốngvà hấp dẫn đa dạng người địa phương khắp nơi về phụng dưỡng, khác lạ là ở đền Isejingu, nơi thờ tiên sư cha Thiên Hoàng xứ Mặt Trời Mọc (Amaterasu).

Dù rằng, phân tích Tống Nho nhưng một vài học giả lại tìm hiểu duyên cớ Nhật Bản và trong khoảng đó, trào lưu phục hưng Thần đạo có mặt trên thị trường. Nhìn bình thường, các học giả luôn nỗ lực sắm điểm đồng nhất giữa đạo Khổng và Thần đạo; hay nói bí quyết khác, người Nhật hấp thụ đạo Khổng một bí quyết có lựa chọn lọc và họ chỉ đề cao những điểm thích hợp với truyền thống dân tộc của họ.

Đạo Khổng được lưu tâm tương tự không có nghĩa là đạo Phật bị quên khuấy. So với đạo Khổng, đạo Phật không có điểm tốt bằng nhưng đạo Phật vẫn luôn đóng vai trò cần thiết trong đời sống phường hội. Giờ đây,  người Nhật chẳng những đi theo đạo Phật mà còn tìm bí quyết kết hợp Tống nho với Thiền, căn bản là tầng lớp võ sĩ. Mặc dầu võ sĩ Samurai thời Eido không còn được đề cao như thời Chiến quốc nhưng họ vẫn luôn muốn biểu lộ được tầm vóc của thống trị bản thân. Qua việc nghiên cứu, học tập những tư tưởng trong Thiền, họ đã sắm thấy ý nghĩa cuộc sống trong kỷ kuật, tính tự chủ, danh dự, đạo lý về danh dự. Bên cạnh tọa Thiền, người võ sĩ trau dồi thêm đạo đức Khổng giáo với các đức tính: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nhờ đó, các võ sĩ đạo đã tạo được nền móng cho riêng bản thân mình. Chính các võ sĩ Samurai và các nghệ sĩ Thiền đạo đã có những đóng góp không nhỏ xíu góp phần hoàn thành thêm nền văn hoá Nhật Bạn dạng như các môn võ nghệ: kiếm thuật( Kẹnjutsu), Cung thuật( Kyujutsu) hay các môn nghệ thuật khác: Kịch No, Trà đạo,…Có thể nói rằng dưới thời Tokugawa, Phật giáo được chấn hưng phổ thông hơn thời gian Momoyama. Và chính sự hoà nhập tổng hợp giữa truyền thống Thần đạo với Phật giáo và Nho giáo đã trở thành nền tảng thẩm mỹ trong văn hoá truyền thống Nhật Bạn dạng.

Cùng với một vài tôn giáo bình dân, người Nhật luôn coi trọng Đạo giáo. Người Nhật vốn ưa sống sạch sẽ, thanh tịnh, gần cận với tự nhiên, sống hoà mình với thiên nhiên. Hơn nữa, trong nhà người Nhật luôn có bàn thờ để tưởng nhớ cha ông, ông bà, phụ thân mẹ. Chính những điều này đã trở thành nét đẹp truyền thống của văn hoá Nhật Phiên bản.

Đạo Cơ đốc giáo được PR vào Nhật Phiên bản trong khoảng cuối những năm 40 của thế kỉ XVI. Ban sơ, nó được người Nhật kết nạp một cách quan tâm với động cơ thực dụng của các lãnh chúa muốn kiếm lời qua ngoại thương. Nhưng rồi khi nhận thấy nguy cơ xâm lược trong khoảng phương Tây tiềm ẩn thì tức thì các lệnh cấm đạo được đưa ra. Đằng sau các lệnh cấm đạo và sự bè đảng áp Đạo thiên chúa chính là chế độ tự vệ chứ ko phải nhằm chống cự bản thân Đạo thiên chúa, chẳng hề mang thuộc tính tôn giáo.

7. Kỷ nghuyên Minh Trị

Ở thời kỳ này, Nhật Hoàng Minh Trị đã tiến hành cách tân quốc gia theo hướng văn minh hóa cho giống với hình mẫu các nước phương Tây. Khi đó, ông trông thấy mỗi cường quốc đều có quốc giáo và mỗi người dân đặt niềm tin rất lớn vào đạo Shinto. Vì thế, năm 1870 ông ra quyết định tách đạo Shinto ra khỏi đạo Phật, tuyên bố Shinto là quốc giáo và hợp nhất đơn vị.

Với mục đích khiến cho trong sáng Thần đạo Nhật Bạn dạng, giảm thiểu không cho nó chịu ảnh hưởng bởi những tín ngưỡng nước ngoài, một đạo luât được ưng chuẩn để huỷ bỏ số đông những điện thờ và các giáo phái của đạo Phật có sự pha trộn của đạo Shinto. Kết quả là phổ quát đền thờ của đạo Phật bị trở thành điện thờ Shinto, những bức tượng Phật bị nấu chảy, các sư sãi bị bắt quay trở lại đời sống trần thế. Bằng cách thức đó, những giáo phái có sự pha trộn của đạo Phật và đạo Shinto đều biến thành giáo phái của đạo Shinto nhà nước. Những nghi tiết và công ty của đạo này được duy trì để tạo ra tư tưởng quốc gia , phù hợp với khẩu hiệu “Saisei ichi” tức thị sự hợp nhất giữa tín ngưỡng và nhà nước là một. Đồng thời, tăng lữ của đạo Shinto trở thành khí cụ của nhà nước.

Điện thờ Ise ở Amaterasu và điện thờ Yasukuni được coi là những nơi vô cùng quan trọng. Với qui định trong Hiến pháp- hòa bình tín ngưỡng và lấy lí do đạo Shinto ko phải là tôn giáo nên việc thờ phụng ở những điện thờ này là buộc phải. Đến năm 1945 khi nước Nhật bị bại trận, đạo Shinto không còn được coi là quốc giáo.

Cuối thế kỉ XIX được coi là thời gian tối tăm của đạo Phật. Rộng rãi đền chùa bị phá huỷ, mất mát đa dạng đất đai, thay tham gia đó, đạo Shinto trở thành quốc đạo. Sau này, đạo Phật dần dần trở lại chiếm được niềm tin của người dân Nhật Phiên bản và sự phổ biến sống lúc trước của nhị đạo đã sinh ra. Lúc này, phổ thông môn phái mới sinh ra, trong khi những trường phái cũ vẫn được duy trì và nguồn vốn đầu tư của phần lớn các ngôi đền xoành xoạch được đảm bảo.

Sự thịnh vượng và phát trỉển của Phật giáo được phản ánh trong việc hồi phục tu sửa đền chùa. Ở Nhật, số chùa thờ Phật lên đến hơn 10.000 chùa với 89.900.000 giáo đồ. Cũng có hầu hết người vừa tu hành( tại nhà ), vừa hoạt động chính trị, binh nghiệp, kinh doanh…

Những năm sau cách tân( 1868), đạo Phật lâm thời thời bị mất uy tín. Nhưng khi người Nhật mở cửa nhập cảng những nhân tố của các nền văn hoá, hiện đại trong khu vực và trên trái đất thì những yên cầu về đạo đức của đạo Khổng được coi là những nhân tố cần thiết trong hệ tư tưởng Hoàng đế( Tennosei). Người Nhật luôn nỗ lực gắn sự cai trị của Hoàng đế với trị giá đạo đức của đạo Khổng, khác biệt là lòng phổ biến thành và sự hiếu thảo. Hình như, người Nhật còn thu nhận kiến giải lối suy nghĩ của đạo Khổng theo bí quyết riêng của bản thân mình, cải biến cho thích hợp với nhân tố kiện đặc biệt của Nhật Phiên bản. Việc cải biến được chấp hành dựa trên năm đặc điểm sau: sự bình thường thành, tính lễ thức, lòng dũng mãnh, sự công minh, tính cần kiệm và tính “hoà”-“hiếu”.

Sang thế kỉ XX, các công ty Khổng giáo tạo ra vô cùng mạnh khỏe. Người ta đã khôi phục lại các lễ thức của đạo Khổng và áp dụng những giá trị đạo đức của đạo Khổng một bí quyết có tinh thần nhằm xúc tiến mối liên kết thống nhất hài hoà trong phường hội và để chống cự chủ nghĩa cá nhân có duyên cớ trong khoảng phương Tây.

Tới những năm 1930- 1940 do nhận thấy sức ảnh hưởng lớn của đạo Khổng đối với người dân Nhật Bản, đạo Khổng đã bị lợi dụng như một thứ dụng cụ để xâm lược đất liền Nhật Bạn dạng.

Ngoài những tín ngưỡng truyền thống như đạo Shinto, đạo Phật, đạo Khổng được khôi phục và tạo ra quay về, ở Nhật Phiên bản thời Minh Trị còn có những tôn giáo mới được hình thành. Chúng vẫn mang đặc điểm của tín ngưỡng truyền thống như thờ cúng cha ông, thờ Thánh chữa bệnh, thờ Thánh pháp thuật. Dĩ nhiên, điểm mới của những tín ngưỡng này biểu thị trong nhiều hình thái tín ngưỡng khác biệt và sự câu kết kĩ năng khắc phục vướng mắc của loài người với chiều hướng nhân loại quan của trái đất.

Nước Nhật thời Minh Trị thành lập cửa kết nạp có lựa chọn lọc văn hoá nước ngoài nên luôn đứng trước sức ép ngoại giao của các nước phương Tây. Thiên chúa giáo thời gian này có quan hệ với đạo Tin lành và nhập vai trò cần thiết trong phát hành giáo dục và tư tưởng phố hội chủ nghĩa ở Nhật Bản. Đến năm 1880, Đạo gia tô có sự khởi sắc nhưng đến năm 1890 những hoạt động của Thiên chúa giáo có vẻ lắng xuống do ý thức dân tộc nổi lên.

Đạo Cơ đốc giáo thời kì này hoạt động rất hạn chế do những khó khăn về vốn đầu tư và ý thức dân tộc chủ nghĩa. Tất nhiên, đạo Cơ đốc giáo vẫn hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, xã hội và có quan hệ mật thiếtvới các những nơi công cộng, bệnh viện và các đơn vị phúc lợi khác.

8. Thời kỳ sau Chiến tranh Quả đât thứ nhị tới nay:

Đạo gốc của Nhật Phiên bản là Thần đạo. Người ta thờ phụng các hero, các thủ lĩnh xuất chúng của cộng đồng qua đa dạng thế hệ, thờ phụng ông cha các vật linh thiêng trong thiên nhiên như mặt trời, mặt trăng…Sau cách tân Minh Trị, đặc biệt trong Chiến tranh thế giới thứ Nhì, Thần đạo trở thành quốc giáo. Nhưng sau Chiến tranh, Thần đạo không còn được lợi bất kì một đặc quyền nào nữa mặc dầu nghi tiết của nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân Nhật Bản. Hiện giờ, Thần đạo sống sót Đồng thời và nhiều lúc hoà quyện với đạo Phật trong tinh thần quần chúng. Bên cạnh Phật giáo hay đề cập đến kiếp sau thì Thần đạo lại nhắc nhở người ta hướng đến cuộc sống hiện nay. Đa số người Nhật kết duyên theo nghi tiết Thần đạo nhung lại chôn cất theo nghi lễ đạo Phật.

Đạo Phật ở Nhật Bạn dạng hoàn toàn khác so với các dạng thường gặp gỡ ở Đông Nam Á. Hơn 100 giáo phái khác biệt của đạo Phật đều thuộc về hoặc có xuất xứ trong khoảng một trong những giáo phái lớn được nhập cảng vào và sản xuất tại Nhật Phiên bản lúc ban sơ như: Jodo, Jodo Shin, Nichiren Singon, Tendai và Zen. Năm 1947, Hội nghị Hoà bình liên tín ngưỡng họp ở Hiroshima, chỉ trích những thái độ bị động trong chiến tranh và nguyện hành động vì hoà bình. Những giáo phái Phật cổ truyền gia nhập Liên đoàn Phật giáo quả đât (1963). Nói bình thường, các tín ngưỡng truyền thống của Nhật Bản không muốn có lập trường kiên cường mà đi theo một tuyến đường lối hoà bình chủ nghĩa bình thường tầm thường, tránh gợi lên đấu tranh thống trị, cố gắng duy trì hoà bình và sự tán thành đồng đội kiểu làng phường mở rộng ra cho cả non sông.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhì, một vài trào lưu tín ngưỡng mới có đà phát triển trên cơ sở Thần đạo, số khác dựa trên đạo Phật và một số khác nữa dựa trên cơ sở pha trộn các tôn giáo.

Năm 1549, đạo Cơ đốc giáo nhập cảng tham gia Nhật Bản. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhì hoàn thành, các nhà tuyên giáo láng giêng quay trở lại Nhật Bản hoạt động. Lúc này, do phổ biến người dân mếch lòng tin tham gia nước Nhật và tin yêu tham gia nước Mĩ nên đạo Cơ đốc giáo đã gây được sự xem xét. Hiến pháp sau chiến tranh đảm bảo hòa bình tín ngưỡng và đã tách tín ngưỡng ra khỏi nhà nước. Các đội ngũ Cơ đốc giáo tích cực hoạt động cho phong trào hoà bình. Những Lễ giáng sinh, đám cưới theo kiểu Thiên chúa giáo biến thành một bộ phận của văn hoá quần chúng và hình ảnh của Cơ đốc giáo đã trở thành thân thiết hơn với mỗi cư dân Nhật Phiên bản. Bây chừ, trong số tín đồ Cơ đốc giáo ở Nhật Bạn dạng, số tín đồ Tin lành đông hơn (981000) số tín đồ Thiên chúa (457000). Dĩ nhiên, nhìn một phương pháp toàn diện đạo Cơ đốc giáo chiếm giữ chưa đến 1% dân số. Trong khoảng đó có thể thấy rằng, đạo Cơ đốc có ảnh hưởng nhưng chỉ là ảnh hưởng rất nhỏ bé trên giang sơn Nhật Bản.

Ngoài những tôn giáo truyền thống, từ năm 1945 quay về đây, ở Nhật Bạn dạng hiện ra gần như tín ngưỡng mới hay những đơn vị tôn giáo mới.Về triết lí, chúng là sự hỗn dung của đạo Phật, đạo Kito, đạo Shinto và các tôn giáo hoàn toàn mới. Hiện giờ, số lượng tôn giáo mới đã lên đến hơn 3000 với khoảng 30- 40 triệu tín đồ. Nhật Phiên bản có khoảng 15 tín ngưỡng lớn và có thế lực. Mỗi tín ngưỡng lớn có trên 3 triệu giáo đồ, những tôn giáo nhỏ nhắn có số lượng giáo đồ ít hơn. Tôn giáo lớn có mạng lưới đền chùa trên khắp nước Nhật và thu phục được rộng rãi giáo đồ trên nhân loại. Các tín ngưỡng mới này khác lạ thân mật tới việc giải quyết khó khăn của phụ nữ và đề ra vài giải pháp sử dụng kỹ năng sức lực của nữ giới.

Hiện giờ, nhị tín ngưỡng mạnh nhất đều bắt nguồn từ tông phái Phật Liên Hoa của Nichiren, đó là Risokosekai và Sokagakkai. Tôn giáo Risokoseikai( có hơn 5 triệu tín đồ) pha trộn kinh Liên Hoa và vài tín ngưỡng dân dã. Các giáo đồ của giáo phái này hăng hái tham gia các phong trào hoà bình, liên tôn, Đối Địch Thần đạo quốc giáo hoá…nhưng hệ tư tưởng lại mang tính cổ hủ. Tôn giáo Sokagakkai có hơn 16 triệu tín đồ, lúc đầu đi vào cách tân giáo dục,đề ra chủ trương thông minh những giá trị tinh thần và sống theo Phật dạy. Năm 1964, phái này lập ra chính đảng Komeito nhưng tới năm 1970 lại tự tách ra.

Tín ngưỡng Reiyukai khi mới xây dựng thương hiệu gồm những người bần hàn, những cư dân quê mới thiên cư lên Tokyo. Mặc dầu trong khoảng sau năm 1945 tín ngưỡng này gia tăng giáo đồ từ các giáo phái khác nhưng những giáo đồ cũ vẫn tin tham gia giáo lý của bản thân mình và hoạt động như cũ, đặc biệt tăng nhanh phụng dưỡng tiên sư. Tín ngưỡng Omotokyo do một đàn bà lập ra trong khoảng trước năm 1945. Lối suy nghĩ của giáo phái này là muốn đả phá chủ nghĩa tư bạn dạng ngoại lai, sự tiến bộ hoá và chống cự quân phiệt. Bởi vậy, giáo phái này bị bằng hữu áp nhưng sau chiến tranh hiện ra trở lại. Năm 1948, họ doanh nghiệp tranh đấu vì hòa bình ở Hiroshima và liên tiếp chống chọi; tới năm 1962 họ quyết định chuyển hướng. Tôn giáo Seichomole có hoài bão triết học hơn. chậm tiến độ là hy vọng sắm chân lý bạn dạng ngã và tuyệt đối đề cao Nhật Hoàng. Tín ngưỡng này có khoảng 3,5 triệu giáo đồ.

Thuộc tính thông thường của các tôn giáo truyền thống Nhật Bạn dạng cực kì phức tạp. Ở mỗi công đoạn lịch sử, các tín ngưỡng ngoại lai đều thay đổi, biến dạng và bị Nhật hóa đi đa số. Cả ba tôn giáo chính Phật giáo, Thần đạo, Cơ đốc giáo đều bộc lộ được hệ thống tổng hợp giải nghĩa về tự nhiên, loài người, thị trấn hội và lịch sử nói bình thường; là nơi gửi gắm tình cảm tín ngưỡng của người dân Nhật Bản. Trong Phật giáo có “ cuộc thế của Phật”, trong Cơ đốc giáo có Chúa, trong Thần đạo có “đoạn đường của các vị thần”.

Chúng tôi trân trọng mọi quan niệm và cổ hủ vũ san sớt trong khoảng bạn.


Xem thêm: japanshoponline

0 nhận xét:

Đăng nhận xét